Con
trai ‘người anh hùng tên Ðương’ chạy xe ôm ở Sài Gòn
Cựu Trung Tá Pháo Binh Dù Bùi Đức Lạc kể về cái chết của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương
Cựu Trung Tá Pháo Binh Dù Bùi Đức Lạc kể về cái chết của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương
Tuesday, March 15, 2016 6:23:16 PM
Bài liên quan
Việt Hùng/Người Việt
Lời
Tòa Soạn: Sau khi báo Người Việt đăng bài “Thăm bà quả phụ “Người anh hùng Mũ Ðỏ
tên Ðương”,” tức cố Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương, Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, Quân
Lực VNCH, hy sinh tại chiến trường Hạ Lào vào đầu năm 1971, rất nhiều độc giả
đã liên lạc với tòa soạn bày tỏ sự quan tâm thăm hỏi và giúp đỡ tới gia đình bà
Trần Thị Mai. Ðể độc giả hiểu rõ hơn về hoàn cảnh hiện tại của gia đình, phóng
viên Việt Hùng tìm hiểu công việc chạy xe ôm của anh Nguyễn Viết Xa, người con
trai út của cố Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương.
***
SÀI GÒN (NV) - Ở Sài Gòn, nếu có dịp đi ngang qua ngã tư Dương Tử Giang-Nguyễn
Chí Thanh, phường 4 quận 11, có thể chúng ta sẽ bắt gặp một người đàn ông có
nét da ngăm đen, cao to và hiền lành, hành nghề lái xe ôm. Ít ai biết người đàn
ông có cái tên Nguyễn Viết Xa ấy lại là con trai út của cố Ðại Úy Nguyễn Văn
Ðương, “Người anh hùng Mũ Ðỏ,” nhân vật chính trong ca khúc “Anh không chết đâu
anh” của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Anh Nguyễn Viết Xa bắt đầu một cuốc xe chở khách trên chiếc xe đã quá cũ của mình. (Hình: Việt Hùng/Người Việt) |
*Ðời xe ôm vất vả
Mười hai giờ trưa ngày 15 tháng 3 năm 2016, chúng tôi ngồi ở một
quán cà phê cóc ven đường Nguyễn Chí Thanh, quan sát bác tài xế xe ôm “đặc
biệt” này. Khi không có khách, anh dựng chân chống đứng xe lên, rồi ngồi lên
yên xe quan sát từng người đi đường qua lại.
Thấy một người trẻ đi bộ ngang qua, anh đứng xuống đất, giơ tay
vẫy: “Xe ôm nhé! Về đâu anh chở, giá phải chăng thôi?” - “Cảm ơn. Em có bạn đến
đón rồi,” - người bạn trẻ trả lời. Anh đành ngồi lên lại yên xe, chờ cơ hội
khác.
Tôi đưa ly cà phê đến, ngồi bắt chuyện với anh. Có người trò
chuyện, anh dốc bầu tâm sự: “Bây giờ taxi nhiều, giá cũng khá bình dân, khách
đi “mưa không đến mặt, nắng chẳng tới đầu,’ nên cánh xe ôm tụi anh ế lắm. May
thì kiếm được dăm, ba chục nghìn đồng mỗi ngày. Nhưng có không ít hôm ‘lỗ’ cả
tiền xăng.”
“Nói thật với em, không nghề ngỗng gì, mới chạy xe ôm chứ đứng
phơi mặt ra đường hết ngày này qua ngày khác, hết năm nọ sang năm kia, nắng mưa
không cần biết, khá sao được?” Ðang chuyện vui, thấy có khách đến hỏi, anh Xa
chào tôi rồi cùng khách, rú ga cho xe chuyển bánh.
Chiếc xe Dream “Made in China” cũ nát từ từ lăn bánh. Khách hàng
là một người đàn ông đứng tuổi, dáng vẻ khắc khổ, hỏi ra mới biết là người dân
ở quê lên Sài Gòn khám bệnh. Anh Xa chở khách tới bệnh viện Chợ Rẫy, xuống xe
anh lấy 10,000 đồng (gần 50 xu Mỹ) rồi nở nụ cười, “chúc anh mau lành bệnh
nhé!”
Quay xe về chỗ cũ, lần này tôi có dịp được quan sát “cần câu cơm”
của anh một cách tỉ mỉ hơn. Phải nói là chiếc xe quá cũ, đèn xi nhan phía trước
đã bị bể. Anh Xa cho biết: “Anh mua xe này cũng được 10 năm rồi. Hồi đó có
người ở Úc gửi cho mẹ anh 200 đô la, anh mới bán chiếc Honda cup 50cc đời cũ,
để chuyển sang xe này. Tuy là của Trung Quốc, nhưng phân khối cũng được 100cc.”
Với 20 năm trong nghề chạy xe ôm, anh Xa cho hay: “Nếu là khách lạ
bảo chở đi xa, nếu thấy khách có vẻ hiền lành thì mới nhận lời. Nếu mặt mũi bặm
trợn là phải từ chối khéo. Còn nếu là khách quen, đi xa như về Ðồng Nai, Vĩnh
Long hay Bình Dương... thì luôn sẵn lòng.”
Trong những ngày chạy xe, anh Xa cũng đã gặp không ít những chuyện
khó lường. Anh kể: “Ba năm trước, tôi chở một đàn ông khoảng 50 tuổi, nhìn vẻ
bề ngoài thấy mặt mũi hiền lành, đi Tây Ninh. Ðến đoạn bãi tha ma vắng vẻ, anh
này bảo chở vào tận bên trong rồi mới trả tiền. Thấy vậy, tôi vờ dừng xe mua
nước rồi hỏi người dân xung quanh thì họ bảo đừng vào, vì nhiều vụ xe ôm bị
cướp đã xảy ra ở đó. Nghe vậy, tôi thấy rợn cả người, quay ra đòi tiền khách,
nhưng anh ta không trả mà đi thẳng. Tôi đành ngậm ngùi về.”
“Làm xe ôm tuy có vất vả, nguy hiểm, nhưng mỗi ngày có thể kiếm
được 100 ngàn đồng (khoảng 5 đô la Mỹ) sau khi đã trừ tiền xăng xe, ăn uống.
Còn những hôm trời mưa, không có nhiều khách, kiếm được vài chục ngàn cũng cảm
thấy vui,” anh Xa cho biết.
Anh Nguyễn Viết Xa khi đậu xe ở ngã tư Dương Tử Giang-Nguyễn Chí Thanh chờ đón khách. (Hình: Việt Hùng/Người Việt) |
Với những người làm nghề xe ôm như anh Xa, một ngày mới trôi qua,
nhưng nỗi lo cơm áo, gạo tiền vẫn còn đó. Mặc sương gió đêm đông, mặc cho cái
nắng gay gắt của mùa hè, họ vẫn cần mẫn bám “bến,” vẫn chạy xe trên những đường
phố quen thuộc để kiếm miếng cơm, manh áo...
*Tự hào về người cha anh hùng quá cố
Gian nan là thế, nhưng khi nhắc đến người cha của mình, ánh mắt
anh sáng hẳn lên, khuôn mặt hởn hở và anh kể: “Lúc cha anh mất, anh chưa đầy 2
tuổi. Cái tuổi chưa hiểu được sự mất mát khi không có cha là gì?”
Lớn lên đi học, thấy bạn bè ai cũng được có ba đến đón khi tan
trường. Anh mới bắt đầu thấy “có sự khác biệt.” Lúc đó tôi có hỏi mẹ tôi thì
chỉ được mẹ bảo là “cha đi công tác xa chưa về, nên con cố gắng chăm ngoan, học
giỏi thì lúc cha về mới có quà.”
Ngày tháng tuổi thơ cứ thế trôi qua. Bốn anh em chúng tôi chở nhau
đi học. Mẹ tôi lúc đó bán hàng nhỏ ở chợ chồm hổm hỏm gần nhà. Nhưng sau này
khu chợ này cũng bị chính quyền dẹp không cho bán, vì lấn chiếm lòng lề đường.
Lúc tôi lên 15 tuổi, mẹ tôi mới kể sự thật về ba tôi.
Lúc đó trong
lòng tôi đã bắt đầu cháy lên một niềm tự hào về cha mình. Qua thời gian sau,
được nghe những người lính Nhảy Dù kể về cha tôi, tôi mới biết được “cha tôi là
một anh hùng.”
|
Anh Nguyễn Viết Xa thắp hương trên bàn thờ của cố Đại uý
Đương trong ngày giỗ cha. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)
|
Với khuôn mặt chùng xuống, nét mặt buồn vơi đi như muốn trào ra
nước mắt, anh Xa tiếp lời: “Nhưng thời thế nó vậy em à. Là một người lính chết
ngoài xa trường, thì âu cũng là chuyện thường. Cái anh đang lo và thương nhất
là mẹ anh.”
“Ngày tụi anh còn bé, mẹ anh làm đủ thứ nghề, từ buôn bán nhỏ lẻ ở
chợ, rồi sang bưng bê phục vụ quán ăn. Ban ngày đi làm, ban đêm về còn phải lo
những công việc như nấu ăn, giặt áo quần và dạy chúng tôi học bài.”
“Anh có mong muốn điều gì ở hiện tại?” Anh Xa cho biết: “Anh đã li
dị vợ từ lâu rồi, lại không có con nên chỉ sống với mẹ mà thôi. Bây giờ mẹ cũng
đã lớn tuổi, mà anh suốt ngày cứ rong ruổi ngoài đường thì thấy không yên lòng.
Bởi vậy nếu có chút vốn thì anh sẽ mở một tiệm tạp hóa bán ở nhà để vừa có thu
nhập mà vừa được gần mẹ hơn.”
Trả lời cho câu hỏi: “Có khi nào anh oán trách cha mình?, vì nếu
còn có cha, chắc chắn đời anh đã khác?” Anh liền trả lời: “Không bao giờ có
chuyện oán trách đâu em. Ðúng là có lúc anh đã nghĩ nếu còn có cha, chắc chắn
anh sẽ không khổ như bây giờ. Nhưng mọi chuyện đã qua rồi. Anh tự hào khi cha
anh đã có cái chết vì lý tưởng bảo vệ sự bình yên của miền Nam Việt Nam.”
“Nếu cho anh được lựa chọn lại. Anh vẫn sẽ chọn làm người con của
ba anh. Cuộc sống của anh có thể nghèo, nhưng khi nói về cha, anh có khối ‘tài
sản’ để tự hào mà lấy ra để kể cho bạn bè.” Ðó là cảm nghĩ của anh Xa khi nói
về người cha quá cố của mình, Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương, mà nhiều người biết đến
với tên gọi “Người anh hùng Mũ Ðỏ tên Ðương.”
*** Nguồn : Người Việt
Chuyện Một
Thời Khói Lửa Chiến Chinh!
Trung Tá Bùi Đức Lạc Kể
Về Cái Chết Của “Người Anh Hùng Mũ Đỏ Tên Đương”
Di ảnh Cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương
Thực Hiện
Nguyện Ước Cuối Đời!
Thưa Quý vị,
Đặc biệt là Quý NT và CH trong QLVNCH,
nhất là Đại Gia Đình Tiểu Đoàn 3, Pháo Binh Nhảy Dù, và Binh Chủng
Nhảy Dù… rất mong được góp tay:
Để giúp cho Bà
Nguyễn Văn Đương có cơ hội đi Hạ Lào (như mong ước suốt 45 năm qua),
đến thăm nơi người chồng yêu quý, một chiến sĩ Anh Hùng của QLVNCH, đã mãi
mãi nằm lại (nơi rừng thiêng, núi thẳm của quê người..).
Sau đây là địa chỉ
và điện thoại để Qúy Vị liên lạc trực tiếp:
904 / 47 đường
Nguyễn Chí Thanh,
Phường 4, Quận 11,
Sàigòn. Việt Nam.
Liên lạc với :
Bà Nguyễn Văn Đương (Trần
Thị Mai) : 08 -
22239352
Con trai (thứ tư): Nguyễn
Viết Xa – 09 –
06304851
Trung Tá Bùi Đức Lạc Kể Về Cái Chết Của “Người Anh Hùng Mũ Đỏ Tên
Đương”
Trung Tá Bùi Đức Lạc kể về cái chết anh dũng của Đại Úy Pháo Binh Dù Nguyễn Văn Đương
Trung Tá Bùi Đức Lạc kể: “Lúc Nguyễn Văn Đương
chết, tôi đang bay trên trời ngay trên đầu Nguyễn Văn Đương, nên tôi biết rất
rõ, tại sao Nguyễn Văn Đương chết và chết như thế nào! Nguyễn Văn Đương là Pháo
Đội Trưởng Pháo đội B3 Nhẩy Dù.
Trong căn cứ của anh, hiện có một pháo thủ là
anh Đào Văn Thương, có thể đang có mặt tại đây, sau này là Mục Sư Đào Văn
Thương. Những người trong căn cứ 31 hiện giờ không còn ai ở đây, nhưng các pháo
thủ có mặt trong trận Hạ Lào, thì có Thiếu Tá Đào Kim Trọng (Pháo Đội Trưởng
Pháo Đội A.3 Dù), Thiếu Tá Lý Kim Điền (Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Dù), Nguyễn
Kim Việt (Pháo Đội Phó Nhảy Dù) và Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C3 là Đại Úy Bành
Kim Trí. Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh có một Pháo Đội 155 ly của Đại Úy Trương Như Hy,
đóng tại căn cứ 30.
Ngày mà chúng tôi nhận được tin Trung Tướng Đỗ Cao Trí chết
tức là ngày 21-2, ngày mà căn cứ chúng tôi bị pháo khoảng 2.000 trái đạn. Đạn
dược trong trận Hạ Lào, tụi Việt cộng rất là dư thừa, nhưng mình rất là khan
hiếm nó ngược lại như vậy, và các súng tối tân của nó
cũng trên mình hết, tức là các súng 130 ly và hỏa tiễn.
Ở miền Nam chúng ta chỉ
bị pháo hỏa tiễn 122 ly, cùng lắm là 2 nòng mà thôi. Nhưng sang Hạ Lào, chúng
dùng 6 nòng, bắn một lúc 6 trái và nó bắn không bao giờ dưới 6 tràng, tức là
không bao giờ dưới 60 trái; đạn dược của nó dư dả như vậy, nên căn cứ 31 của
chúng tôi bị pháo khoảng 2.000 trái đủ các loại đạn. Nhưng thật sự, chúng ta ở
trong Pháo Binh biết, nếu mà 2.000 trái mà trúng căn cứ, thì chắc chúng tôi
thành bụi hết rồi.
Nó pháo 2.000 trái chỉ trúng căn cứ tối đa là 10 trái; cũng
may như thế mà giờ đây tôi có dịp trình bày với quý vị. Không có ngày nào nó
pháo dưới 1.000 trái, nhưng đa số ra ngoài căn cứ hết. Hôm 21, khi nó tấn công
căn cứ 31, thì chúng tôi bị pháo như thế và căn cứ 30 cũng bị pháo tương tự.
Ngày 24, là ngày căn cứ 31 bị thất thủ, tôi và Đại Tá Lưỡng, không biết ai xin,
nhưng khi máy bay trực thăng đáp xuống thì hai chúng tôi phải lên máy bay đi.
Chúng tôi đang bay quan sát cho Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, lúc đó Tiểu Đoàn 8 và một
Thiết Đoàn đang đụng độ với sư đoàn 320 Việt cộng. Ở bên các cánh quân khác như
Lữ Đoàn 3, chỉ bị một sư đoàn tấn công, còn riêng Lữ Đoàn 1, ba Tiểu Đoàn Dù bị
ba sư đoàn tấn công ngày đêm, không có lúc nào mà không có đơn xin tác xạ trên
hệ thống tác xạ hết, thành ra trong trận Hạ Lào, anh em chúng tôi không bao giờ
có một giấc ngủ trọn vẹn 10 phút, kể cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi đang bay quan
sát trên không phận của Tiểu Đoàn 8, thì căn cứ 31 bị tấn công rất mạnh, tấn
công giữa ban ngày.
Tất cả những trận đánh tại căn cứ 31 đều diễn ra ban ngày hết. Ban
đêm chỉ là đặc công đánh nhỏ mà thôi. Khi nó tấn công thì từ chỗ tôi đang bay,
nhìn qua căn cứ 31, chỗ Đương đang đụng trận, thì thấy những chiến xa của Việt
cộng lờ mờ không thấy rõ, tôi ước lượng khoảng 10 chiến xa. Lúc đó Nguyễn Văn
Đương gọi cho tôi nói ‘Nó đông lắm anh ơi!’. Tôi hỏi: ‘Tình trạng bây giờ như
thế nào?’.
Đương cho biết: ‘Lủng tuyến rồi anh ơi!’. Tôi nhìn đồng hồ khoảng 2
giờ 50 chiều. Vào khoảng 3 giờ thiếu 10, Nguyễn Văn Đương gọi nói: ‘Em chỉ còn
hai cây súng bắn được thôi’, và sau đó Đương nói, ‘Em chỉ còn một cây súng bắn
được thôi. Tức là 5 cây hư, chỉ còn độc nhất một cây’. Khoảng 4 giờ, Đương cho
tôi biết là, ‘Chiến xa địch đang nằm trên đầu em’.
Lúc đó Đương đang ở dưới hầm
và qua máy liên hợp, tôi nghe Đương nói với một nhân viên của anh: ‘Băng cho
tao, máu ra nhiều quá rồi’. Lúc bấy giờ tôi mới biết tay phải của Nguyễn Văn
Đương đã bị rớt rồi và chân Đương cũng bị trúng đạn, nhưng Đương vẫn bình tĩnh
nói với tôi: ‘Em lên đạn bằng cái kiểu ngày xưa đó, tức là súng Col của Đương,
Đương phải dùng tay phải tỳ vô cái dây nịt bụng mà lên đạn, không thể lên đạn
bằng hai tay được nữa.
Khoảng 4 giờ hay 4 giờ 05 thì Đương nói: ‘11 ơi, em
không liên lạc với 11 nữa, vĩnh biệt 11!’ và rồi tôi không nghe gì nữa.
Tôi
nghĩ lúc đó Đương đã vĩnh biệt tất cả đồng đội. Trước khi chết, Đương cho tôi
biết, anh chỉ còn có hai viên đạn cuối cùng trên nòng súng mà thôi! Và đó là
cái chết của Nguyễn văn Đương trên mặt trận Hạ Lào. Sau đó khoảng 5 phút, Đại
Tá NguyễnVăn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 gọi cho tôi nói: ‘11 làm ơn bắn ngay
trên đầu tao đi’. Trên máy bay tôi cho lệnh tất cả các pháo đội sử dụng đạn nổ
CVT, dù sao tôi cũng sợ bắn đạn thường rơi vào hầm hố của quân mình, nên tôi
dùng đạn CVT.
Khai hỏa vào khoảng 4 giờ 15, thì tất cả 4 pháo đội đồng khai hỏa
bắn vào căn cứ 31 và bắn giết cả bạn lẫn thù, lần đầu tiên trong đời pháo thủ
của tôi! Khi tôi vừa ra lệnh bắn, thì Đại Tá Lưỡng và tôi cùng cả phi hành đoàn
đều bật khóc. Đó là cái chết của Đại Úy Nguyễn Văn Đương và Đại Tá Lữ Đoàn
Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại mặt trận Hạ Lào”.
Bùi đức Lạc
No comments:
Post a Comment