On Sunday, September 4, 2016 8:48 PM, truc nguyen <> wrote:
ĐCSVN đã phản bội & chà đạp lên thân phận
người lính QĐNDVN
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
- Rõ ràng, tập đoàn Lãnh đạo ĐCSVN đã nhẫn tâm phản bội & chà đạp lên thân phận của lính QĐNDVN đã hy sinh chống quân Trung cộng xâm lược để bảo vệ tổ quốc. Chưa hết, một tờ báo Công An thành Hồ, số ra ngày thứ sáu 29/3/2013, có nội dung giả dối trơ trẻn, đọc xong cái tựa đề là tôi muốn nôn mửa: “đảng là máu thịt, trái tim và khối óc của quân đội”. Người lính QĐNDVN đã sáng mắt ra chưa?...
*
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 2013 là ngày kỷ niệm 34 năm chiến tranh
biên giới phía Bắc, các đơn vị ưu tú của QĐNDVN đã anh dũng chống quân xâm lược
Trung Cộng tràn qua biên giới tấn công Việt Nam. Một phái đoàn gồm đồng bào mọi
giới trong đó có các đảng viên cộng sản: Nguyễn Trọng Vĩnh - nguyên Ủy Viên
TƯĐ; Ts. Nguyễn Đình Lộc - nguyên Bộ trưởng Bộ Tư Pháp; Nguyễn Trung - cựu Đại
sứ CSVN tại Thái Lan; nhà thơ Việt Phương - nguyên thư ký của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng; ông Trần Đức Nguyên - thành viên Ban Tư Vấn của cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, Gs. Phạm Duy Hiển, Ts. Nguyễn Quang A, Ts. Nguyễn Xuân Diện... và nhiều
thanh niên, trí thức Hà Nội đã mang vòng hoa “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ
chống Trung Quốc xâm lược” tới Đài Tưởng Nhớ Liệt Sỹ tại Hà Nội. Rất
đáng buồn là lực lượng bảo vệ an ninh Đài Tưởng Niệm cấm đặt vòng hoa này vào
viếng liệt sỹ hy sinh chống quân Trung Quốc xâm lược. Một nhân viên an ninh
viện dẫn lý do rằng đoàn tưởng niệm phải đăng ký trước và qua thủ tục kiểm tra
vòng hoa.
Nhìn lại trận chiến chống quân xâm lăng Trung Cộng:
Về phía Trung Cộng:
Ngày thứ bảy 17 tháng 2 năm 1979, lúc 3 giờ 30 sáng, pháo binh
Trung Cộng ào ạt pháo kích vào các vị trí quân sự của VN tại các quận Tiên Lĩnh,
Hà Quảng thuộc tỉnh Cao Bằng, mở đầu cho một tổng tấn công quy mô trên một
chiến tuyến dài hơn 1.000 cây số dọc theo đường biên giới Việt-Trung từ Lai
Châu đến Móng Cái.
Trong lịch sử chiến tranh Việt-Trung, những địa danh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Đông Khê, Thất Khê trở thành bãi chiến trường giữa hai nước. Ngay
buổi sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Cộng đã tấn công 19 mục tiêu dọc
theo biên giới hai nước. Trong số 26 mục tiêu bị tấn công từ cấp tiểu đoàn.
Riêng Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cay bị tấn công bằng cấp sư đoàn.
Tổng số lực lượng vũ trang Trung Cộng trong những ngày đầu chiến
dịch khoảng 80.000 quân, con số nầy tăng dần cho tới ngày cuối của chiến dịch lên
tới 150.000 quân. Đó là chưa kể hàng mấy trăm ngàn binh sĩ khác giữ nhiệm vụ
yểm trợ hay trừ bị ở hậu cần. Chỉ huy tổng quát mặt trận là tướng Hứa Thế Hanh,
Tư lệnh Quân Khu Quảng Châu (gồm 2 tỉnh Quảng Đông & Quảng Tây). Tướng Hứa
Thế Hanh đặt Bộ Tư Lệnh mặt trận tại Nam Ninh. Phụ tá cho Hứa Thế Hanh là Dương
Đắc Chí, từng nổi danh khi phụ tá cho Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều
Tiên.
Trong những ngày đầu cuộc chiến, tướng Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ
huy mặt trận tấn công Cao Bằng, Lạng Sơn, còn Tướng Dương Đắc Chí phụ trách tấn
công Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang. Trung Cộng đã điều động nhiều quân đoàn từ
nhiều quân khu khác nhau: 2 Quân đoàn 13 và 14 được giao trách nhiệm tấn công
Lai Châu, Lào Cai; 2 Quân đoàn 41 & 42 tấn công Cao Bằng; những Quân đoàn
43, 54 & 55 tấn công mạn Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Về phía Việt Nam:
Phòng thủ biên giới Việt-Trung là trách nhiệm của những Quân khu
I, II & III:
Tư lệnh Quân Khu I là tướng Đàm Quang Trung không phải là tướng có
khả năng. Quân khu nầy gồm cả Cao Bằng và Lạng Sơn nên chịu áp lực nặng nề nhất
của quân xâm lược Trung Cộng. Trong những ngày đầu, trách nhiệm phòng thủ Lạng
Sơn được giao cho Tướng Nguyễn Văn Thương, Tư lệnh sư đoàn 3.
Tư lệnh Quân Khu II là tướng Vũ Lập, chịu trách nhiệm phòng thủ
Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.
Tư lệnh Quân Khu III là Nguyễn Quyết, chịu trách phòng thủ vùng
Châu thổ sông Hồng và có lẽ cả Đặc khu Quảng Ninh do Sùng Lãm chỉ huy.
Bộ Tổng Tham Mưu đặt tại Hà Nội trực tiếp theo dõi, giám sát và
điều hợp mặt trận.
Để thi hành Hiệp ước Hữu Nghị, Liên Sô gửi sang Hà Nội một phái
đoàn “tham mưu” cùng với thiết giáp hạm Senyavin túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Việt.
Và có lẽ vì chủ quan vào hậu thuẫn của Liên Sô, VN đã tính toán sai lầm về
quyết tâm tấn công quân mô của quân Trung Cộng, nên Hà Nội đã tung hết 3 trong
4 Quân đoàn chính quy vào trong cuộc hành quân xâm lăng Campuchia. Vì vậy, khi
quân Trung Cộng bất ngờ mở cuộc tấn công, VN chỉ còn những sư đoàn 308, 312,
390... của Quân đoàn 1 đóng quanh Hà Nội.
Do đó, trách nhiệm phòng thủ biên giới được giao cho những sư đoàn
chính quy Quân khu như: Sư đoàn 3, 327, 337, sư đoàn Tây Sơn... khu Lạng Sơn.
Sư đoàn 567, B46, sư đoàn pháo binh M66 ở Cao Bằng. Các sư đoàn
316, 345, đoàn B68, M63... ở Quân khu II, phối hợp cùng các Trung đoàn chủ lực
tỉnh, các huyện đội và lực lượng công an biên phòng.
Hơn một tuần sau, vì tình hình chiến sự nguy kịch, Bộ Tham mưu của
QĐNDVN phải gấp rút điều động dân quân từ vùng Trung Châu, các sư đoàn chinh
quy của Quân Khu IV, cùng Quân đoàn 2 từ Campuchia về tăng cường phòng thủ.
Trong những ngày đầu cuộc chiến, dựa vào quân số đông đảo, tướng
Hứa Thế Hữu cho áp dụng chiến thuật biển người để tấn công. Tại Lai Châu, phía cực
Tây biên giới, quân Trung cộng tấn công Gò Tô, Phong Thổ trên đường tiến về
tỉnh lỵ Lai Châu.
Tại hướng quan trọng Lào Cai, 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 13 và 14
tấn công ngay vào thị xã và các xã lân cận như Thanh Bình, Bản Châu. Tại Hà Giang,
họ tấn công Bản Kiệt, La Quỳnh. Hướng quan trọng thứ hai là Cao Bằng cũng bị 2
sư đoàn của các Quân đoàn 41 & 42 tấn công. Tại Quảng Ninh, 2 trung đoàn
quân TC tấn công Than Phum, Cao Bá Lãnh.
Riêng tại mục tiêu chủ yếu Lạng Sơn, quân TC tấn công theo thế
gọng kềm bằng hai hướng: Hướng thứ nhất là 2 sư đoàn 163, 164 thuộc Quân đoàn
55 vượt Hữu Nghị Quan tấn công Đồng Đăng, cửa ngõ phía Bắc Lạng Sơn. Hướng thứ
hai do 2 sư đoàn 127 & 128 thuộc Quân đoàn 43 tiến đánh từ phía Đông vào
các tiền đồn ở Bản Xuân, Đồng Nội, Hải Yến.
Tại khắp mặt trận, quân TC gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của
QĐNDVN, nhờ vào vị trí hiểm trở với sự yểm trợ hữu hiệu của đủ loại pháo binh 72,
85, 105, 155, 130 đến hỏa tiễn 122 ly đã gây tổn thất nặng nề cho quân TC, nhất
là tại mặt trận Lạng Sơn và Cao Bằng. Về phía Lai Châu và Lào Cay bị tổn thất
nhẹ hơn vì Dương Đắc Chí đã không tấn công chính diện mà dựa vào địa thế rừng
núi hiểm trở để tiến quân và các mũi tấn công được pháo binh và thiết giáp yểm
trợ hữu hiệu hơn. Vì tổn thất quá cao, Hứa Thế Hanh buộc phải bàn giao quyền
chỉ huy các cuộc hành quân cho Dương Đắc Chí.
Sau khi Dương Đắc Chí nắm quyền, chiến thuật biển người bị hủy bỏ
và áp dụng tối đa hỏa lực pháo binh và thiết giáp yểm trợ bộ binh. Sau mấy ngày
đêm bị pháo kích, các công sự phòng thủ lần lượt phị phá sập. Quân TC cuối cùng
đã chiếm được một số mục tiêu. Riêng tại Lạng Sơn, sư đoàn 163 của TC chiếm được
Đồng Đăng vào ngày 22/2/1979.
Sau khi được bổ sung quân số và tiếp liệu đầy đủ, quân TC mở đợt
tấn công mới. Dương Đắc Chí tận dụng tối đa quân số áp đảo, hỏa lực pháo binh
và thiết giáp yểm trợ nên chỉ trong vòng một ngày, các thị xã ven biên Lai Châu,
Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang lần lượt bị thất thủ, sau đó quân TC tiếp tục
chuyển quân về phía Nam dọc theo Quốc lộ số 2 tiến đánh Cam Đường.
Tại hướng tấn công chính Lạng Sơn, quân TC tung 6 sư đoàn 127, 129
thuộc Quân đoàn 43, sư đoàn 160, 161 thuộc Quân đoàn 54, sư đoàn 163, 164 của Quân
đoàn 55 với hàng trăm xe thiết giáp cả đại bác yểm trợ. Về phía VN, các đơn vị
phòng thủ chính gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 347 và sư đoàn 337 mới từ Quân khu
IV ra tăng viện, kết hợp thành Quân đoàn 14 để thống nhất chỉ huy.
Thị xã Lạng Sơn bị pháo kích suốt ngày đêm, cuối cùng quân TC xâm
nhập được thị xã và quân đội 2 nước cộng sản đã phải chiến đấu ác liệt trên đường
phố, cho tới khuya đêm 14 /3/1979, quân TC hoàn toàn làm chủ thị xã Lạng Sơn.
Ngày hôm sau, TC tuyên bố đã được mục đích dạy cho các lãnh đạo ĐCSVN một bài
học, đơn phương ngưng bắn và sẽ lui binh.
Trên đường lui binh, quân TC dùng công binh phá sập hết những công
sự, đồn bót, cầu đường, trường học, chợ búa, nhà máy, bệnh viện... ở những thị
xã bị chiếm đóng, kể cả hang Pắc Bó, “suối Lê Nin”, “núi Các Mác” và cuộc rút
quân của Trung Cộng kéo dài đến ngày 16/ 3/1979 mới hoàn tất.
Không có tài liệu chính thức nào được công bố số quân dân thương
vong của hai bên tham chiến. Người ta chỉ ước lượng là trên 100.000 người cho cả
hai bên trong cuộc chiến gần 30 ngày giao tranh đẫm máu sau khi khi quân TC
chính thức rút quân vào ngày 16/3/1979.
Trên đường tấn công, cũng như rút lui, quân TC nã đạn bừa bãi
không thương hại đối với bất cứ người già, đàn bà, trẻ con mà họ gặp trên đường
tiến quân. Sư đoàn 163 TC nhận được lệnh từ cấp chỉ huy là “sát cách vô luận”
(giết người không bị buộc tội); do vậy, lính TC đã thẳng tay sử dụng súng tiểu
liên, đại bác, hỏa tiễn, súng phun lửa... để tiêu diệt con người và tài sản từ
làng này sang làng khác, số thường dân VN bị giết trên hàng ngàn người.
Tại Bát Xát thuộc Lào Cai, hàng trăm phụ nữ bị đạo quân thổ phỉ
Trung Cộng, một loại rợ Hung Nô của thế kỷ thứ XX hãm hiếp, bị giết dã man ngay
trong ngày đầu vượt biên giới Việt-Trung thì tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo,
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trong ngày 9/3/1979, trước khi rút quân, quân Trung
Cộng đã giết 43 người gồm phụ nữ, 20 trẻ em, trong số nầy có 7 phụ nữ mang
thai. Tất cả đều bị giết bằng mã tấu, 10 người bị ném xuống giếng, hơn 30 người
khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
Kết quả giết người dã man đó, được Đặng Tiểu Bình cười hả hê, nói:
“Mười một ngày này, trên đường trở về đã quét dọn một số hang, có một số vật tư
giấu ở hang nầy, hang nọ, một số thôn trang, cũng quét dọn mấy ngàn người, trên
vạn người.”
oOo
Ngay khi quân xâm lược Trung Cộng rút lui về bên kia biên giới,
trên toàn cõi Việt Nam đâu đâu cũng nghe tiếng gào thét về sự dã man của quân Trung
Cộng. Những áp phích tố cáo tội ác của quân TC xâm lược được dựng lên ở các ngã
ba, ngã tư đường. Tranh cổ động tràn ngập trên các bức tường nơi có nhiều người
qua lại. Học sinh được học những bài học về những lần Bắc thuộc về sự tàn bạo
của quân Tàu khi đô hộ VN, được hát những bài hát có những lời ca hết sức hằn
học.
Bia tưởng niệm những người bị quân xâm lược Trung Cộng giết hại
hồi tháng 2 năm 1979 ở thôn Tổng Chúp, xã Hưng đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
(huyện bao quanh thị xã Cao Bằng). Nội dung như sau: “Vụ thảm sát tại
Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, Huyện Hòa An, quân Trung Cộng xâm lược dùng cọc tre,
búa bổ củi đập chết 43 phụ nữ và trẻ em quăng xuống giếng nước.”
Vậy mà 34 năm sau, những tên lãnh đạo ĐCSVN không cho làm lễ tưởng
niệm những chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam. Ban Văn Hóa Tư Tưởng của
BCHTƯ đảng đã lập lại lệnh cấm hệ thống truyền thông đề cập đến cuộc chiến
tranh xâm lược mà quân Trung Cộng thực hiện ngày 17/2/1979.
Đã vậy, báo Hà Nội số ra ngày 19/9/2008 lại trâng tráo cho đăng
bài ca tụng tài dùng binh thần tốc đầy mưu lược của tên giặc Tàu Hứa Thế Hanh, đã
oanh liệt đập tan QĐNDVN. Hứa Thế Hữu là người chỉ huy đánh 2 tỉnh Cao Bằng và
Lạng Sơn năm 1979, như một cách xát muối vào vết thương lòng của những người
Việt Nam có thân nhân trong QĐNDVN đã anh dũng hy sinh để bảo vệ từng tấc đất,
từng cao điểm chiến lược nơi tuyến đầu biên cương của Tổ quốc.
Ngoài ra, báo còn ca tụng những anh hùng quân đội Trung Cộng như
“liệt sĩ” Tiền Anh Hào trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chứ không hề có
một lời tôn vinh một liệt sĩ anh hùng nào trong QĐNDVN đã vị quốc vong thân, bỏ
mình vì nước.
Trong khi đó, tại nghĩa trang liệt sỹ Long Châu, nơi chôn xác quân
xâm lược Trung Cộng tử trận trong cuộc tràn qua biên giới xâm lăng Việt Nam vào
ngày 17/2/1979 thì Tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN ra lệnh cho chánh quyền địa phương
đặt vòng hoa, có ghi hàng chữ bằng tiếng Việt: “Đảng ủy, Hội đồng Nhân
dân, Ủy Ban Nhân dân, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc xã Đề Thám đời đời nhớ ơn liệt sĩ liệt sĩ Trung Quốc.”
Khốn nạn chưa! Tại sao bọn lãnh đạo ĐCSVN vô liêm sỉ lại chà đạp
thân phận của những người lính QĐNDVN đã đổ máu để bảo vệ Tổ Quốc chống quân xâm
lược Trung Cộng? Tại sao ĐCSVN bắt buộc nhân dân Việt Nam phải đời đời nhớ ơn
quân xâm lược Rợ Đại Hán đã tàn sát dã man dân làng một cách man rợ? Một câu
hỏi được đặt ra: “Tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN có còn là người Việt Nam nữa hay
không?”
Sự kiện nầy chứng tỏ bản chất của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN là hiện
thân những tên Thái thú của bọn Trung Nam Hải. Những tên lãnh đạo vô liêm sỉ nầy
nhìn cuộc chiến biên giới năm 1979 qua lăng kính của bọn Tàu khựa. Trong khi
đó, những tác phẩm của các nhà văn Việt Nam viết về cuộc chiến tranh biên giới
Việt - Trung đều bị cấm đoán. Điển hình là tập truyện ngắn của Vũ Ngọc Tiến bị
thu hồi và nhà xuất bản Đà Nẵng bị đóng cửa thì cuốn “Ma Chiến Hữu” của
Mạc Ngôn ca ngợi người lính Trung Cộng anh hùng đã hy sinh vì Tổ Quốc Trung
Hoa, lại được văn nô Trần Trung Hỷ dịch ra tiếng Việt, được nhà xuất bản Văn
học Phương Nam ấn loát và phổ biến rộng rãi.
Ngày nay 34 năm sau, dường như không còn chút vết tích gì về cuộc
chiến đó trên quê hương Việt Nam. Hầu hết trên các tỉnh phái Bắc, nơi xảy ra các
cuộc chiến, những tấm bia nào có ghi dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược”
đều bị đục bỏ hoặc xóa sạch. Cũng có những nghĩa trang chôn cất những người
lính trong QĐNDVN đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ Tổ quốc lại đìu hiu, không
khói nhang lạnh lẽo đến ngậm ngùi xót xa.
Tại nghĩa trang Duyên Hải, Lào Cai là một điển hình chua xót. Cũng
từ cái chủ nghĩa hy sinh cao cả ấy, các anh đã cầm súng chiến đấu với giặc thù
và đã anh dũng hy sinh đền nợ nước và sự hy sinh của các anh ngày hôm nay, đã
bị bọn lãnh đạo ĐCSVN phản bội trắng trợn và chà đạp tàn nhẫn lên những nấm mồ
bỏ hoang của các anh. Sự hy sinh của các anh đã tan biến vào cõi hư vô, âm thầm
như những cái chết vô danh. Những nấm mộ nầy vẫn nằm im lặng trong lãng quên
của nhiều người; ngoại trừ nỗi buồn đau xót xa của những chiến hữu và người
thân các anh còn ở lại trên cõi đời nầy. Những nấm mồ hoang vắng của các anh là
chứng tích hùng hồn tố cáo sự phản bội quá trắng trợn của tập đoàn lãnh đạo
ĐCSVN đã chà đạp lên thân phận của người lính QĐND Việt Nam anh hùng đã hy sinh
vì Tổ quốc.
Tuy vậy, trên “Blog Osin”, người đọc được biết tác giả “Biên
Giới Tháng Hai” cho biết:
“Chỉ có một vài bó hoa và những nén hương của lữ khách, các nghĩa trang
biên giới quạnh hiu suốt ngày 17/2/1979. Tội đợi đến chiều, trao đổi với các
đồng nghiệp và điện thoại cho một vài quan chức địa phương, không có một cuộc
viếng thăm, không một vòng hoa và chẳng có khói nhang nào. Tôi không có các tài
liệu chính thức để biết Trung Quốc và Việt Nam đã thỏa thuận với nhau những gì
về cách ứng xử đối với cuộc chiến năm 1979. Nhưng tôi không nghĩ rằng, tưởng
nhớ những người đã khuất lại có thể phương hại đến các cuộc viếng thăm giữa hai
nước hôm nay.
Tối 15 tháng 2, ngồi nói chuyện với một người đã từng lái xe tải thương
ở Hà Giang trong những năm từ sau 1979, những chuyến xe có những thương binh
ngồi chung với các liệt sĩ từ biên giới trở về. Xe anh bao giờ cũng có thẻ
hương và một thân cây chuối chặt ngang. Nhiều khi dừng lại, mới hay trên chuyến
xe, anh là người sống sót cuối cùng. Nhiều thương binh đã không kịp về tới bệnh
xá dã chiến. Anh lấy hương thắp lên, cắm vào khúc chuối rồi ngủ thiếp đi bên
đồng đội đã yên giấc ngàn thu. Những năm quyết lấy lại điểm cao 1509, có những
chuyến xe, tối chở bộ đội lên, sáng trở về đầy xác. Những người lính ấy trong
chiến tranh đã từng tranh giành những cao điểm với giặc. Giờ đây, lặng lẽ bên
nhau không giành giật điều gì.
Những người lính ấy không cần lễ nghi và có thể cũng không biết
rằng, họ lại bị quên lãng nhanh chóng như thế. Nhưng, những người còn sống thì
cần. Không phải là điểm cao 1509 đầy máu, chỉ là một nấm mồ lặng lẽ. Đừng hoảng
hốt. Hàng năm, 17 tháng 2 hãy đến đấy và thắp một chút nhang khói. Hãy cầu xin
sự thanh thản, cho mình.”
Kết luận:
Đáng lẽ ngày 17 tháng 2 hàng năm, lãnh đạo ĐCSVN phải tổ chức một
buổi lễ long trọng tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến
tranh với Trung Cộng. Vì đó là dấu móc mà nhân dân Việt Nam đời đời khắc cốt,
ghi xương vì bản chất hung bạo, tàn sát dã man đồng bào ta của bọn lính Trung
Cộng mọi rợ.
Vậy mà, bọn lãnh đạo ĐCSVN nỡ lòng nào cản trở không cho các phái
đoàn với đồng bào mọi giới đến dâng hương và đặt vòng hoa tưởng niệm các anh hùng
liệt sỹ vị quốc vong thân đã anh dũng hy sinh đền nợ nước trong cuộc chiến
tranh chống quân xâm lược Trung Cộng ở biên giới phía Bắc cách đây 35 năm.
Blogger Lã Dũng, thuật lại với VOA Việt ngữ:
“Mọi người đi đến nghĩa trang Đài tưởng niệm liệt sỹ ở Bắc Sơn, Ba
Đình (Hà Nội) cũng bị cản trở ở đấy. Họ không cho đưa vòng hoa vào. Cuối cùng,
mọi người phải bái vọng ở ngoài mặc dù trong đoàn có rất nhiều người là cán bộ
lão thành cách mạng. Không đưa được vòng hoa vào đấy, mọi người có đưa vòng hoa
về Gò Đống Đa, nơi tưởng niệm anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ. Mọi
người có đặt 2 vòng hoa ở đó với khẩu hiệu: “Tưởng Niệm Những Chiến Sĩ Đã Hy
Sinh Vì Chống Trung Quốc Xâm Lược”.
Khi chúng tôi đến nơi, chúng tôi cũng vào tưởng niệm và chụp ảnh.
Lúc đó, có một bảo vệ đến đọc vòng hoa khá kỹ. Khi thấy dòng chữ trên vòng hoa,
họ định gỡ xuống. Chúng tôi cản, yêu cầu họ không được gỡ. Họ bảo băng rôn trên
vòng hoa này không được và họ gỡ xuống dù họ không nói được một quy định nào
cả. Anh bảo vệ gọi công an vào. Lúc sau, một Trung tá công an đến hống hách kêu
chúng tôi gỡ vòng hoa ấy đi. Chúng tôi không đồng ý và gọi họ gọi thêm một số
người tới nữa, giằng co, xô xát với chúng tôi tại Đài Tưởng Niệm đó. Khi chúng
tôi vừa quay đi đến cửa thì thấy hai anh công an vệ sinh mang hai vòng đi, hạ
xuống.”
Rõ ràng, tập đoàn Lãnh đạo ĐCSVN đã nhẫn tâm phản bội & chà
đạp lên thân phận của lính QĐNDVN đã hy sinh chống quân Trung cộng xâm lược để bảo
vệ tổ quốc.
Chưa hết, một tờ báo Công An thành Hồ, số ra ngày thứ sáu
29/3/2013, có nội dung giả dối trơ trẻn, đọc xong cái tựa đề là tôi muốn nôn
mửa: “đảng là máu thịt,
trái tim và khối óc của quân đội”.
Người lính QĐNDVN đã sáng mắt ra chưa?
04.089.2016
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
__._,_.___
No comments:
Post a Comment