Về nước,
thấy gì,
nghĩ gì?
“Nhân dân
Việt Nam
Anh Hùng…”
Bài 14
“Lộ diệc tương
trì,
Ngư ông đắc lợi”
“Nhân dân
Việt Nam anh hùng”. Câu nầy nghe rất quen, dĩ nhiên, trong xã hội Cộng Sản ở
phía Bắc vĩ tuyến 17 và ở miền Nam Việt Nam, sau ngày ba mươi tháng Tư/ 75.
Bài “Giải
Phóng Miền Nam” (?), “quốc ca” của cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa Lâm thời Miền
Nam Việt Nam” của các “con bù nhìn” Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị
Bình… do “con bù nhìn” Lưu Hữu Phước viết, cũng có câu dụ khị đó: “Vùng lên! Nhân
dân Việt Nam anh hùng”.
Ai chẳng
biết đây là câu tuyên truyền. Thanh (và cả thiếu niên) miền Bắc, nghe câu tuyên
truyền nầy mà tình nguyện vô bộ đội để “đi Nam”, “giải phóng miền Nam” cho xứng
với người con trai của một “dân tộc anh hùng”.
Thanh niên
miền Nam cũng đâu có “thua”, mặc dù họ không bị chính quyền miền Nam tuyên
truyền như Cộng Sản, - bởi vì nói về tuyên truyền, các cơ quan tuyên truyền
miền Nam, từ Bộ Dân Vận - Thông Tin - Chiêu Hồi cũng như cơ quan Tâm Lý Chiến
của Quân Đội VNCH làm việc dở ẹt, quan liêu, “văn phòng”, ngồi ở “hậu phương”
hơn xông pha ngoài mặt trận, đâu có dám về tận thôn ấp để “cùng ăn, cùng ở,
cùng làm” với dân quê, chia xẻ gian lao nguy hiểm cùng với người dân, người
“lính” Nhân Dân Tự Vệ…
Thế nhưng
người dân miền Nam lại hăng hái gia nhập quân đội VNCH, đánh giặc cũng chì,
gian khổ hiểm nguy không ngại. Việt Cộng nghe “đụng” tới “Cọp Ba Đầu Rằn”, “Cọp
Biển”, “Thiên Thần Mũ Đỏ” thì xiêu hồn bạt vía, chỉ muốn “chém vè”.
Người thanh
niên, sinh viên, học sinh miền Nam học cái “tính anh hùng” trong lịch sử do
thầy cô dạy ở trường học, từ lớp Ba, lớp Bốn: Quang Trung, Lê Lai, Lê Lợi… từ “Áo chàng đỏ
tựa ráng pha…” trong Chinh Phụ Ngâm học ở lớp Đệ Ngũ (lớp 8), từ “Râu hùm hàm
én mày ngày” trong Truyện Kiều ở năm Đệ Tứ (lớp 9), từ “Nguyễn Thái Học “không thành
công thì thành nhân”, trong Lịch Sử Việt Nam chống Pháp, từ Dũng trong Đoạn
Tuyệt học ở lớp 11 hay từ những câu hò, câu hát của chị, của mẹ sau lũy tre làng:
“Làm trai
cho đáng nên trai…”, “Trai gì trai ốc, trai rêu”…
Hai động
lực, một là từ chính trị - trong xã hội Cộng Sản - một là từ giáo dục và xã
hội, - trong xã hội miền Nam - đã tạo nên những người “lính Cộng Sản” và “lính
Quốc Gia” khác nhau. Một bên là đi theo “con đường mù quáng” vì bị tuyên truyền
như Phạm Đình Giót, Cù Chính Lan, Lê Mã Lương… Đó
là lính của “giai cấp vô sản”, của “xã hội vô sản”. Còn một bên là đi theo con
đường “truyền thống dân tộc” đã có từ trong lịch sử, văn hóa dân tộc: Con đường
“người lính miền Nam” đã chọn.
Nói một cách
trung thực, việc cổ vũ, khuyến khích, thúc đẩy hay tuyên truyền, - theo cả hai
nghĩa xấu và tốt đã đưa dân tộc Việt Nam vào một cuộc đấu tranh, chém giết, nội
chiến, tương tàn… kéo dài 30 năm, từ tháng 8 năm 1945 đến 30 tháng Tư/ 1975 thì
chấm dứt. Nó có ý nghĩa gì, có mục đích gì, có lý tưởng gì?
Bảo rằng nó
không có ý nghĩa, lý tưởng gì hết thì không đúng, mà bảo rằng nó có lý tưởng
đấy, mục đích đấy, ý nghĩa đấy thì cái “hay đẹp” ấy xảy ra lúc nào, ở đâu, của
phe phái nào, miền Bắc hay miền Nam và có đem lại ích lợi gì cho dân tộc Việt
Nam không thì sự hiểu biết, quan điểm của chúng ta cũng chưa rõ ràng!
Người ta sẽ
đặt ra những câu hỏi:
-Có phải đây
là cuộc chiến tranh giành độc lập cho dân tộc thoát vòng “một trăm năm đô hộ
giặc Tây”?
-Có phải đây
là cuộc chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước” như người miền Bắc tự hào về “công lao”
của họ, hay chỉ là để “Xây dựng Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa”, hoặc nói huỵch tẹt
như Lê Duẫn: “Ta đánh đây là đánh ho Liên Xô, Trung Quốc” tức là “đánh giặc thuê”
cho Nga Tàu.
-Có phải đây
là cuộc chiến đấu của những “người Quốc Gia” vì Quốc Gia nhưng Cộng Sản bôi lọ
là “Việt gian bán nước”?
-Có phải đây
là cuộc chiến đấu của Người Miền Nam “Bảo vệ Tự Do” cho dân tộc và Thế Giới Tự
Do”?
Hơn thế nữa,
cuộc “Chiến Tranh Ba Mươi Năm” nầy đâu chỉ có người Việt Nam bắn giết nhau mà
thôi đâu! Súng đạn, xe tăng, đại bác, tàu bay, tàu thủy… từ đâu mà đến? Còn
quân đội ngoại nhập nữa chi? Ở miền Nam thì công khai quân Mỹ, quân Úc, quân
Thái… Ngoài Bắc thì lén lút che dấu quân Tàu Cộng, quân Liên Xô… Đằng sau súng
đạn vũ khí ngoại nhập là “học thuyết” ngoại nhập không thiếu màu sắc “đế quốc”.
Đế Quốc Cộng Sản và “đế quốc La Mã” của Vatican?”
Từ những
“yếu tố” đó, người Việt Nam thẳng tay giết nhau không chùn tay, không e ngại;
máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Chỉ riêng một cuộc chiến tranh “giải
phóng miền Nam”, bọn Cộng Sản Hà Nội đã đẩy 3 triệu người Việt Nam, kể cả hai
miền Nam Bắc vào vòng tử địa.
Việc trả lời
những câu hỏi trên, nếu theo chủ quan của mình, thì không khó. Nhưng lịch sử,
vốn tôn trọng vô tư và “trong sạch” thì đâu phải dễ. Đâu có thể chấp nhận quan
điểm của Cộng Sản tự cho mình có công “Đánh Pháp, đuổi Mỹ” đem lại độc lập cho
dân tộc mà không phải là làm tay sai cho Nga Tàu. Bên cạnh đó, những người từng
làm tay sai cho thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ lại trở thành “người
yêu nước”?
Công việc
quan trọng nầy, nhìn cho đúng với những đặc tính của lịch sử thì phải dành cho
các sử gia, những người có đủ trình độ, can đảm và vô tư như Tư Mã Thiên!
Đánh nhau
xong rồi, cả hai phe ba phía lên tiếng ca ngợi “dân tộc
Việt Nam anh hùng” trong cuộc tương tàn đó! Ai là anh hùng trong việc
bắn giết nhau giữa những người Việt Nam với nhau, cùng máu đỏ da vàng. Ai chịu
trách nhiệm trước những thảm cảnh của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm nầy?
Người bạn cũ
ở Saigon nói với tôi:
-Nói vậy là
“ông” muốn giao cái trách nhiệm cho ngưởi đời sau. Ít ra, vài ba chục năm nữa,
hay có thể cả trăm năm nữa không chừng, khi “dư âm” của cuộc tương tàn nầy lắng
xuống rồi, người đời sau thấy ít liên hệ với cuộc chém giết nầy thì các sử gia
mới có thể vô tư nhận định về cuộc xung đột của cha ông, tổ tiên họ. Tuy nhiên,
ít ra, hiện nay, trong tình trạng “hùm bà lằng” nầy, chúng ta vẫn có một thái
độ như thế nào đó, được coi là vô tư nhất, để chúng ta tự thấy mình cao hơn
những người cuồng tín một cái đầu. “Bạn” nghĩ sao?”
Tôi nói:
-“Tôi lấy
trường hợp gia đình tôi làm ví dụ. Không phải là điển hình, mà chính là tình
trạng chung của nhiều gia đình Việt Nam. Từ đó, chúng ta có quan điểm chính trị
đứng đắn hơn. Đó là những gia đình “phân đôi”, nghĩa là gia đình có những người
theo bên nầy, những người theo bên kia. Trường hợp nầy, ông Võ Văn Kiệt từng
nói, nhưng ông ta không làm được gì cả, hay ông ta muốn làm mà không làm được: “Một triệu
gia đình vui, một triệu gia đình buồn”.
Mẹ tôi sinh
bốn người con trai: Anh cả tôi “can tội làm Việt Minh”. Đó là câu ông “quan
một” Lê Nhữ Hùng - gốc ông ta là lính Khố Xanh của Tây, mang “loon” “đội, sau
nầy ông là đại tá “hầu cận” Tổng Thống Diệm - nói với mẹ tôi năm 1949, khi ông
ta đến văn phòng tòa báo của ông anh tôi lục soát, tịch thu tài liệu báo chí…
Ấy là một người. Người thứ hai là con út mẹ tôi, là “Hùng móm”, đại đội trưởng
112/ tiểu đoàn 11 Dù, hy sinh tại chiến trường vào tháng 7 năm 1972, khi tấn
công Cộng Sản, tái chiếm thành phố Quảng Trị. Ấy là chưa kể cha tôi cũng đau
bệnh mà qua đời ở chiến khu Ba Lòng năm 1948, khi ông “theo Kháng Chiến”. Tôi
không nghĩ là họ không có lý tưởng, nhưng không ai là Cộng Sản cả, không ai bị
tuyên truyền mà chết uổng như những người “xương trắng Trường Sơn”.
-“Theo tôi
nghĩ thì như thế nầy. Về “Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất”, - 1946-54
- như báo chí Tây phương thường gọi, thì giai đoạn đầu của nó, như “Nam Bộ
Kháng Chiến”, như chống Pháp khi Pháp mới trở lại xâm lăng nước ta, thì xem
thường công lao và sự hy sinh của họ là không được. Còn như từ khi Cộng Sản
“biên chế”, khoảng các năm 1950, 51, những người không phải “thành phần” bị
“biên chế”, bị đuổi về, bị loại ra khỏi hàng ngũ, sinh hoạt Cộng Sản thì cuộc
chiến đấu đã chuyển sang màu sắc khác:
Màu đỏ, chiến đấu cho “lý tưởng Cộng Sản”, xây dựng chế độ Cộng Sản, còn gì là
“giành độc lập cho dân tộc” nữa.”
-“Còn như
cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam”. Tôi hỏi.
-“Ngày nay,
chỉ còn bọn tuyên truyền của đảng Cộng Sản mới gọi “Giải phóng miền Nam”, còn
như trong dân chúng, ai nói câu đó, người ta cười cho. Người ta cho rằng, cái
mà người Bắc vô giải phóng miền Nam là “giải phóng” tiền bạc, tài sản, tiền
của, xe cộ, nhà cửa của người miền Nam. Đó là môt cuộc viễn chinh.
Quân viễn chinh bao giờ cũng có những đặc tính giống nhau, như người Pháp xâm
lăng Việt Nam, Đức xâm lăng Pháp, như những cuộc “Thập Tự Chinh” bên Trung
Đông, Bắc Phi hồi mấy thế kỷ trước. Cuộc viễn chinh của Cộng Sản Bắc Việt ở
miền Nam còn tệ hơn cuộc chiếm đóng Việt Nam của quân Nhật sau rận Trân Châu
Cảng.
-“Người dân
cho rằng đây là cuộc viễn chinh?” Tôi hỏi.
-“Ai cho? Tự
cái bản chất cuộc xâm lăng của Bắc Việt nó hiển hiện ra như thế thì người dân
gọi như thế. Điều nầy, không phải là tuyên truyền. Tuyên truyền không thể sâu
rộng như thế!”
-“Có cuộc
viễn chinh nào được gọi là “anh hùng” không? Tôi hỏi.
-“Không có cuộc viễn chinh nào được coi là vinh quang hay anh hùng cả vì
nó là “xâm lăng”, không có chính nghĩa. Đó là sự tuyên truyền của Hà Nội về
“đảng quang vinh” hay “dân tôc anh hùng”. Tôi nói là có căn cứ: Vua Quang Trung
với quân Tây Sơn chỉ có thể là anh hùng khi đánh tan hai mươi vạn quân Thanh;
còn như khi quân Tây Sơn đánh tan quân Nguyễn Ánh trong cuộc tương tàn dân tộc
thì có ai gọi đó là anh hùng đâu. Bắc Việt xua 15 sư đoàn tấn công miền Nam năm
1975 thì gọi nó là cái gì? “Vinh quang”? “Anh hùng”? Hay “tương tàn”? “Bạn” hãy
trả lời tôi đi! Người cha, người anh ở trong quân đội Bắc Việt, theo đoàn quân
chiến thắng vào miền Nam bắn giết người con, người em trong quân đội VNCH thì
gọi việc đó là cái gì? Vinh quang? Anh Hùng? Hay “cha giết con”, “anh giết em”?
Có gì là vinh quang, anh hùng “Đàn con nay
lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng,
Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu…”
Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu…”
“Ông” thử
coi lại lịch sử Mông Cổ xâm lăng thế giới mà coi. Người Mông Cổ đánh giặc giỏi.
Đánh giặc giỏi không thể gọi là anh hùng. Nhưng bản chất quân viễn chinh thì
giống nhau. Lịch sử viết lại khi quân Mông Cổ chiếm đóng thì bọn chúng làm
những gì? Còn như câu Đỗ Mười nói thì y nói những gì:“Tài sản nó,
chúng ta tịch thu; bọn chúng, ta cho tù đày; vợ chúng, ta lấy, con chúng, ta
bắt làm nô lệ.” Hành động như thế là hành động của quân viễn chinh, nhưng miệng
thì tuyên truyền là giải phóng, quân đội anh hùng, dân tộc anh hùng.”
Tuy nhiên,
nhìn một cách vô tư, trung thực, thẳng thắn thì “Người Việt
Nam có phải là một dân tộc anh hùng?
Nếu nói về
tính “anh hùng”, một cách vô tư, không tự mình vẽ râu cho mình, thì người Nhật
là người như thế nào? Người Đức là người như thế nào? Và “Nam tử Hán” là người
như thế nào?
Một cách
trung thực mà không kiêm nhượng, thì người Nhật, về một số mặt, họ hơn hẳn
người Việt Nam. Không phải vì cuốn sách của Hitler, cuốn Mein Kaft mà dân tộc
Đức là những người xuất sắc, anh hùng, trong khi đó, người Tàu thường tự hào về
họ, tự gọi là “Nam tử Hán” thì “Nam tử” bao giờ cũng “tam thập lục kế” trước
thiên hạ. Người Tầu là
hèn nhất trong số những dân tộc hèn.
Như vậy thì
người Việt Nam có anh hùng hay không?
Có người
nhận xét người Việt Nam là “một dân tộc hiền hòa”. Cái “hiền hòa” của người
Việt có “bà con” gì với an phận, nhẫn nhục, cam chịu. Trước 1945, một anh thanh
niên nhà quê đi với vợ mới cưới, gặp tên lính lệ chọc ghẹo vợ mình mà anh thanh
niên “làm lơ”, sợ, không dám phản ứng. Đọc “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, quan
viên cả làng Quỳnh Thôn đâm đơn kiện vụ Nghị Hách hiếp Thị Mịch, vậy mà vì uy
quyền của tên quan huyện ăn tiền Nghị Hách mà cả bọn quan viên sợ hãi nên xin
rút đơn kiện.
Đâu chỉ có
một anh chàng nhà quê mới cưới vợ hay quan viên làng Quỳnh Thôn như thế đâu! Vì
tính cầu an và cam phận nên người Việt mới bị “một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một
trăm năm đô hộ giặc Tây”, nếu không thì họ đã có thể vùng dậy sớm hơn. Hiện
giờ, bao nhiêu cảnh đói khổ đang diễn ra trên nhiều vùng đất nước, Việt Cộng
đang đàn áp và bóc lột khắp nơi, tham
nhũng bất công tràn lan, chỉ một vụ Formosa làm cho hơn nửa triệu người điêu
đứng vì cá chết, ngư dân đành bỏ lưới bỏ thuyền tha phương cầu thực, lưu lạc vô
tới miền Nam, qua tới Lào, Miên mà không có một vụ phản kháng, đấu tranh cho ra
hồn có thể làm cho bọn cầm quyền run sợ. Đó không phải vì tinh thần đối kháng của
người dân còn yếu hay sao?
Dù sao, nhìn
chung vào lịch sử, người Việt Nam cũng đã từng đứng lên đánh đổ ách nô lệ, cởi
bỏ tròng đô hộ, đánh Tầu, đuổi Tây. Những cuộc khởi nghĩa trong lịch sử, kể từ
xưa thường phải có người lãnh đạo vì quần chúng thiếu tinh thần tự chủ hay
chăng?
Thật ra, dân
tộc nào “đứng lên” mà không có người lãnh đạo, ngoại trừ cách mạng Pháp 1789 có
vẻ li kỳ. Cách mạng Mỹ thì có Washington, Cách mạng Nhựt thì có Minh Trị Thiên
Hoàng, cách mạng Tàu thì có Tôn Văn. Cách Mạng Pháp thì không có lãnh tụ nổi
bật.
Người bạn
hỏi tôi: “Cách mạng Việt Nam thì có Hồ Chí Minh, phải không?”
-“Tôi không
nghĩ như vậy! Ngày toàn dân vùng lên, biểu tình ở Hà Nội là ngày 19 tháng 8.
Sau ngày đó thì cách mạng nổ ra ở nhiều nơi. Những ngày đó Hồ Chí Minh ở đâu?
Mãi tới ngày 25 tháng 8, sáu ngày sau, sau khi cỗ bàn bày ra, ông ta mới có mặt
ở Hà Nội. Thật ra, cuộc biểu tình ngày 19 tháng 8 năm 1945 là do công chức Hà
Nội mà ra, nửa chừng bị Việt Minh cướp công. Rõ ràng những cuộc biểu tình cướp
chính quyền trong cái gọi là “Cách mạng tháng Tám” là hậu quả của nhiều sự kiện
lịch sử, không do Việt Minh làm nên. Nó là hậu quả của cuộc Thế giới Chiến
tranh thứ 2, là hậu quả nạn đói hai triệu người chết vào năm Ất Dậu, là Nhật
đầu hàng Đồng Minh, là sự yếu kém của chính phủ Trần Trọng Kim và thái độ quân
tử không tham quyền cố vị của chính phủ ấy, là cái “nhát gan” của ông Bảo Đại.
Công lao lớn nhứt của cuộc cách mạng nầy không phải của Việt Minh mà của ai,
“bạn biết không?”
-“Không!”
Tôi trả lời gọn lỏn.
-“Thanh niên
Tiền phong. Thanh niên Tiền phong với sự góp sức của Hướng Đạo. Thanh
niên Tiền phong hồi đó mạnh lắm, mà nhiệt tình chống Pháp thì rất cao, nhất là
ở miền Nam và miền Trung. Bởi họ là phong trào yêu nước, không có tham vọng chính
trị nên họ đã lầm mà nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh. “Ông” có nhớ không, những
người treo cờ Việt Minh trước ngày biểu tình ở Huế như Đặng Văn Việt, Cao Phan,
Lâm Minh Quang… là
mấy ông Hướng Đạo và Thanh niên Tiền phong cả đấy. Những ngày “cướp chính
quyền”, “cướp kho lúa” hồi ấy, là do Thanh niên Tiền phong, Hướng đạo về các
quận huyện chung quanh Huế kêu gọi nông dân tham gia. Chính ông Thiệu cũng là
người lãnh đạo Thanh niên Tiền phong ở Phan Rang, vận động dân chúng tham gia
biểu tình. (1). Nếu bảo rằng Cộng Sản “cướp công cách mạng” thì trước nhất là
cướp công những người nầy. (2). Nhưng người Việt Nam có cái dở.”
-“Cái gì?
Tôi hỏi.
-“Không tin
vào mình, không tin vào sức mạnh của mình mà tin vào thần quyền.” Người bạn tôi
trả lời.
-“Anh có
nhận xét đó hay đấy. Không tin ở chính mình nên họ không nổi dậy được, không
làm cách mạng được.”
-“Đúng đấy.
“Bạn” thử nghĩ “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”, “hồ Hoàn Kiếm” là cái
gì…” Những việc nầy, tôi nghi Nguyễn Trãi là tác giả. Ông ta bày đặt ra, dân
chúng tin có thật. Đó vừa là do cái tính dễ tin ma quỷ, thần quyền của người
Việt với trình độ kiến thức của người dân ở thế kỷ 15. Cho nên Cục Tâm Lý Chiến
chọn ông Nguyễn Trãi làm “thánh tổ” là việc rất tào lao. Không lý ở thế kỷ hai
mươi mà còn tin chuyện rùa vàng nổi lên ở ngay Hà Nội. Đem cái hữu thần mà
chống vô thần Cộng Sản như thế, ai có thể cho rằng họ có trình độ hiểu biết sâu
sắc.”
-“Nhưng
chuyện Hòn Đá Dao ở Tri Thủy bị nghiêng một bên thì sao?” (3) Tôi hỏi.
-“Tôi cũng
không hiểu! Biết đâu đó chỉ là “hazard” của cuộc đời mà nhiều người cho là
“phép lạ” của Chúa, của Phật của những người cuồng tín.” Người bạn trả lời.
-“Có khi tôi
cũng tin là “hazard” mà cũng có khi tin là “điềm Trời” chớ không tin “phép lạ”
của Chúa hay Phật.”
-“Có một
điều vui lắm.” Bạn tôi nói. “Ông Thiệu rất thường nói tới “huyệt đế vương”. Ai
có mồ mả ông bà chôn nhằm “huyệt đế vương” mới làm tổng thống được! “Ông” biết
tại sao không?”
-“Ông ta sợ
đảo chánh chớ gì!” Tôi trả lời.
Nói xong,
tôi cười. Bạn tôi cũng cười.
Một lúc, tôi
hỏi:
-“Mai dây,
dân chúng có đứng lên lật đổ chính quyền Cộng Sản được không?”
-“Sao “ông”
lại hỏi thế? Kinh nghiệm là “điều kiện lịch sử”. Tình hình bây giờ đã có điều
kiện gì chưa? Mức độ phẩn uất, phản kháng chế độ tới mức nào rồi. Ngày xưa, mức
độ ấy có đủ ở trong nước là được. Ngày nay, các “đế quốc” – “đế quốc” là tôi
nói chung, thật ra là “cường quốc” có gì cho ta. Nói chung, bọn đế quốc, cường
quốc chỉ là bọn “ngư ông đắc lợi”.
-“Nhắc
chuyện ấy, tôi nhớ ông Hồ Đắc Hanh.”
-“Ông Hanh
dạy bọn mình lớp Nhất. Ông chết ở bên kia sông Thạch Hãn khi làm trung tá?”
-“Ông đó chớ
ai! Tôi nhớ ông dạy bài “Lộ diệc tương trì, ngư ông đắc lợi”. Tôi thích bài ấy
lắm, thuộc lòng, đọc một hơi. Ông cho tôi 10.”
Nói
xong, tôi đọc:
“Nước Triệu toan
đánh nước Yên. Tô Tần vì nước Yên, sang nói với vua nước Triệu là Huệ Vương
rằng:
“Vừa rồi tôi đi
ngang trên bờ sông Dịch Thủy, thấy con trai đang há miệng nằm trên bãi. Có con
cò đâu đấy, đến mổ ngay vào thịt trai. Trai liền ngậm miệng lại.
Cò nói: “Ngày nay
không mưa, ngày mai không mưa; thế nào trai cũng phải chết!”
Trai nói: “Ngày
nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ; thế nào cò cũng phải chết!”
Hai bên găng
nhau, chẳng ai chịu ai. Có ông lão đi đến, liền chộp được cả trai lẫn cò.”
Nay nước Triệu
đem quân đánh Yên. Nước Yên tất phải đánh lại. Hai bên đánh nhau, chẳng ai chịu
ai. Tôi e nước Tần sẽ nhân cơ ấy, đánh chiếm cả Triệu lẫn Yên.
Huệ Vương nghe
phải, bèn bỏ việc đánh Yên./
-“Ông” thuộc
cả bài! Hay đấy.”
-“Mấy năm
sau, tôi cũng dạy cho học trò bài ấy, nhưng tìm trong “Cổ Học Tinh Hoa” không
thấy. Hình như nó ở cuốn 3. Cuốn ba thì người ta tìm chưa ra. Sách cũ quá rồi.
Người bạn
hỏi:
-“Ai là
trai, ai là cò?”
-“Bắc hay
Nam gì cũng được! Không khôn gì hơn trai cò đâu mà lại muốn làm anh hùng.” Tôi
nói.
-“Còn ngư
ông?” Bạn tôi lại hỏi.
-“Thằng Mỹ
hay thằng Tàu hay cả hai. Thằng nào cũng như thằng nào. Nhờ người Việt đánh
nhau 30 năm, nên hai thằng đó chiếm được ngôi vị nhứt nhì!”
hoànglonghải
(1)Thanh
niên Tiền phong: Thanh niên Tiền phong là
một tổ chức chính trị - xã hội hoạt động chủ yếu tại Nam Kỳ trong năm 1945. Đây là tổ chức có đoàn thể mạnh nhất và là lực
lượng chính của một số tỉnh thành ở miền Nam
Việt Nam tham dự sự
kiện Cách mạng
Tháng Tám.
Khởi
đầu tổ chức là tập hợp của các hội Ái hữu học sinh Nam Kỳ cuối thập niên 1930,
về sau phát triển trong bộ phận sinh viên của Tổng hội
Sinh viên Đông Dương. Đây chính là nơi tập hợp các hạt nhân
thanh niên trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc, tổ chức các hoạt động xã
hội, giáo dục truyền thống yêu nước, bí mật hoạt động chính trị và chống Pháp.
Sau
khi Pháp
thất trận ở chính quốc và quân đội Nhật
xâm nhập Đông Dương,
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân bản xứ, tháng 12 năm 1941, Toàn quyền
Đông Dương Jean Decoux
đã cử Trung tá
Maurice
Ducoroy tổ chức các phong trào xã hội và nới lỏng một số
quyền tự do cho dân bản xứ. (Tuy nhiên, các phong trào này đều được các cán bộ
Việt Minh
nhanh chóng thâm nhập và sớm định hướng mục tiêu gây ảnh hưởng trong quần chúng
và giáo dục truyền thống yêu nước, tuy tránh đả động đến chính quyền.) - Phần nầy
sai! – tg)
Bên
cạnh đó, các giáo phái được Nhật hỗ trợ cũng phát triển phong trào chính trị
của họ mạnh mẽ:
-Cao Đài
đông hàng triệu người, tỉnh nào cũng có, họ tập trung ở Sài Gòn đến mấy vạn làm
công nhân và làm binh lính. Lực lượng Cao Đài có Đảng Phục Quốc của Trần Quang
Vinh.
-Hòa Hảo
đông hàng chục vạn người, nhiều nhất là ở Hậu Giang,
tập trung tại Sài Gòn đến vài ngàn. Hòa Hảo có chính đảng là Dân Xã Đảng.
-Giáo phái Tịnh độ cư sĩ
có hàng vạn quần chúng, họ không tập trung lên Sài Gòn, nhưng làm cơ sở quần
chúng cho Quốc gia Đảng.
-Phe Trotskyist
không có đông quần chúng nhưng một cánh Trotskyist là cánh Hồ Vĩnh Ký,
Huỳnh Văn
Phương cầm đầu Sở Mật thám và Sở Cảnh sát Nam Kỳ tạo thế cho
các cánh khác hoạt động.
-Nhiều tổ
chức khác có năm, bảy trăm, vài ba ngàn người hợp tác với Sở Sen đầm Kempeitai
của Nhật.
“Ngày nay đối
với phong trào giải phóng đang bồng bột khắp thế giới, dửng dưng lặng lẽ là
chết, an phận là chết. Phải tiêu diệt tinh thần ươn hèn ấy, để tạo nên một tinh
thần mới, chính đáng hơn, vững bền hơn. Tinh thần mới tức là tinh thần thiết
thực, khoa học, luôn luôn tìm hiểu để vượt lên cao... Cuộc phục hưng của dân
Việt Nam sau này thành hay bại là do nơi thanh niên. Muốn làm tròn cái sứ mạng
ấy, Thanh niên Tiền phong trước hết bẻ gãy cái ranh giới giai cấp đã chia rẽ
lực lượng thanh niên… Thanh niên Tiền phong sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, dự bị
chu đáo cho công cuộc vĩ đại của lịch sử, xứng đáng cho đời họ.”
Đoàn viên Thanh niên Tiền phong đội nón bàng, mặc quần soọc màu, sơ mi
tay ngắn, đeo dây thừng ở thắt lưng, bên cạnh một con dao găm bọc da, về sau
thêm một cây gậy tầm vông. Đoàn viên gặp nhau hay họp mặt thì chào nhau bằng
cách đưa tay trái sè ra, ngang vai, hô: “Thanh niên, tiến!”... Khi gia nhập
Thanh niên Tiền phong, đoàn viên phải thề “phục vụ Tổ
quốc, đấu tranh cho độc lập dân tộc”, “giữ danh dự
cho cá nhân và đoàn thể, thân ái với đồng đội, can đảm trong mọi trường hợp,
chống mọi sự bất công của kẻ cậy quyền thế, sẵn sàng giúp đỡ người bị hoạn nạn,
chấp nhận sự phê bình thân ái của đồng đội, phục tùng đoàn thể”.
Phong trào Thanh niên tiền phong đã nhanh chóng tổ chức các hoạt động
cứu trợ nạn nhân do các cuộc oanh tạc của Đồng Minh
và giúp đỡ đồng bào miền Bắc đang bị nạn đói
lúc đó. Do tôn chỉ xã hội rộng rãi, không phân biệt chính trị tôn giáo nên
Thanh niên Tiền phong nhanh chóng trở thành phong trào mạnh nhất ở Nam Kỳ và
lan rộng đến Trung Kỳ. Sau 2 tháng vận động, ngày 1 tháng 6
năm 1945,
tổ chức Thanh niên Tiền phong chính thức ra mắt. Các thủ lĩnh phòng trào gồm có
bác sĩ
Phạm Ngọc
Thạch, kiến trúc sư
Huỳnh Tấn
Phát, nha sĩ
Nguyễn Văn
Thủ, luật sư
Thái Văn Lung,
bác sĩ
Hồ Văn Nhựt,
Trần Văn Khéo...
và các sinh viên Huỳnh Văn
Tiểng, Mai Văn Bộ,
Lưu Hữu Phước,
Trần Bửu Kiếm...
Ban quản trị Thanh niên Tiền phong gồm: Lê Văn Huấn,
Kha Vạng Cân,
Phạm Ngọc
Thạch, Nguyễn Văn
Thủ, Thái Văn Lung,
Tạ Bá Tòng,
Huỳnh Tấn
Phát, Huỳnh Văn
Tiểng, Kiều Công
Cung, Hồ Văn Nhựt...
Chỉ riêng tại Sài Gòn,
phong trào đã có hơn 20 vạn người tham gia và phát triển hơn 1 triệu đoàn viên
trong toàn cõi Nam Kỳ.
(2)Sau khi Pháp đầu hàng Đức, thực dân Pháp Việt Nam mới mở khóa sĩ quan
để người bản xứ làm sĩ quan trong quân đội Pháp.. Ông Phan Tử Lăng đậu thủ khoa
khóa đầu tiên. Khi Pháp đầu hàng Nhựt, ông mang “loon” quan hai (trung úy).
Ông
tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, thuộc quyền Phan Anh, bộ trưởng Thanh Niên
chính phủ nầy. Ông phụ trách “Thanh Niên tiền Phong”.. Ông cùng luật sư Phan
Anh thành lập một trường quân sự. Ông phụ trách huấn luyện phần quân sự; luật
sư Phan Anh phần chính trị, nhưng để tránh người Nhật theo dõi, khóa học được
gọi là khóa “Thanh niên Tiền tuyến”. Khóa học khai giảng ngày 2 tháng 7 năm
1945. Học viên sau nầy có người làm tướng trong quân đội Cộng Sản như Cao Văn
Khánh, trung tướng Việt Cộng, Tôn Thất Khâm, thiếu tướng Việt Cộng, Đặng Văn
Việt, “con hùm xám đường số 4”), Lâm Minh Quang, tử trận vào khoảng 1948, 49
(?) . Sau khóa thứ nhất, trường giải tán vì “Việt Minh cướp chính quyền”. Sau
đó, Phan Tử Lăng theo Việt Minh. Tuy nhiên, tuy là người tài giỏi, ông chỉ được
phong hàm đại tá vì gốc từng là lính Pháp. Ông là bố dượng bà Phan Lương Cầm,
vợ Võ Văn Kiệt.
No comments:
Post a Comment