Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn
Đặng Hoàng GiangGửi tới BBC Tiếng Việt từ Hà Nội
·
4 tháng 3 2015
Từ sau khi
đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai khánh thành, lượng khách tới Sapa tăng đột biến.
Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, ô tô và xe khách biển số 29 và 30 chen chúc nhau
nhích từng tí một trên những con phố dốc và hẹp ở trung tâm, rú ga giữ máy, bấm
còi inh ỏi.
Buổi tối, ở
quảng trường nhà thờ, nhạc disco được mở to hết cỡ, tiếng bass làm vạt áo rung
bần bật. Các buổi sáng, du khách chen lấn nhau để xuống thung lũng "thăm
quan" các bản, lượng iPad nhiều hơn số lợn con nằm vầy đất ven đường.
Không còn nhìn
thấy núi non gì nữa vì hai bên đường đã kín hàng quán bán đồ lưu niệm. Trẻ con
Hmong xếp hàng đợi được phát bánh kẹo như là khỉ trong sở thú.
Những đứa bạo
dạn hơn thì đi giật lùi trước mặt khách, chúng từ chối kẹo, chỉ nhận tiền, và
đồng thanh kêu như những cái máy vô hồn, tiếng Kinh không sõi "cô cho hai
nghìn, cô cho hai nghìn". Một cộng đồng và một vùng thiên nhiên đã đánh
mất nhân phẩm của mình vì du lịch.
Đi du lịch là
một sở thích khá mới của người Việt. Tới tận giữa những năm 1990, Sapa vẫn còn
là một thị trấn xanh, yên tĩnh và thanh bình, du khách chủ yếu là người nước
ngoài. Hồi đó, không có một người Kinh nào quan niệm leo lên đỉnh Phan Si Pang
là một việc đáng làm, đấy là việc chỉ người Hmong “phải” làm để mưu sinh.
Cũng giống như
ở phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ II, phong trào đi du lịch của người
Việt dần dần lớn mạnh khi có đủ ba yếu tố hội tụ.
Thứ nhất, thu
nhập đã vượt qua những nhu cầu tối thiểu. Thứ hai, quỹ thời gian rộng rãi hơn,
người ta không phải đầu tắt mặt tối lo cho cuộc sống nữa. Thứ ba, cơ sở hạ
tầng, nghĩa là phương tiện đi lại, dịch vụ khách sạn và ăn uống, đã tốt lên, để
cho việc xê dịch không còn vất vả nữa.
Những yếu tố đó
làm thay đổi thái độ của người ta với việc di chuyển, chuyển từ quan điểm “xểnh
nhà ra thất nghiệp” tới chỗ coi việc ra khỏi nhà như một thú vui, một sự hưởng
thụ.
Thậm chí, để
thoát khỏi cái buồn chán của cuộc sống công sở hàng ngày ở một thành phố lớn,
người ta còn tìm tới cái vất vả như một cuộc chạy trốn ngắn ngủi, tất nhiên bởi
người ta biết là cái vất vả này là hữu hạn về mặt thời gian, và các rủi ro nằm
trong vùng được kiểm soát. Các phong trào phượt, phong trào đạp xe, phong trào
“leo Phan” ra đời.
Lũ lượt đi chơi
Khoảng khắc cho
đồ đạc lên ô tô để lên đường bao giờ cũng là một trong những khoảnh khắc phấn
khởi nhất của cả gia đình trong năm, và hình ảnh người bố trẻ lái xe trên xa
lộ, người mẹ trẻ gọt hoa quả ở ghế bên cạnh, ở đằng sau là hai đứa con chụm đầu
chơi iPad, truyền tải một trong những cảm giác sống viên mãn nhất của Việt Nam
đầu thế kỷ 21.
Du lịch là con
ngỗng đẻ trứng vàng với nhiều địa phương, họ giàu có lên trông thấy nhờ vào
nguồn thu từ du khách, nếu “giàu có" được đo bằng số lượng nhà cao tầng
mới xây và số ô tô chạy trên đường. Cái mất mát thì không ai lượng hoá được.
Thờ ơ hoặc không ý thức được mặt trái xấu xí của du lịch, phần lớn các chính
quyền địa phương tiếp tục cổ suý vô điều kiện cho “ngành công nghiệp không
khói” này như một hướng phát triển văn minh và tiến bộ.
Cái đang xảy ra
ở Sapa là sự hoành hành phá phách của hiện tượng du lịch đại trà (mass tourism)
và chính sách phát triển phục vụ nó. Chính sách này có thể được gói gọn trong
một mục tiêu: càng nhiều khách càng tốt. Để tiếp tục với ví dụ Sapa: số lượng
khách tới đây vào năm 1991 là 2 000.
Năm 2002, con
số này là 60 000 người. Nhưng riêng trong đợt nghỉ Tết Nguyên đán 2015 vừa rồi
số du khách đã là 50.000 người.
Trong cuốn “Quá
tải: kinh doanh du lịch bùng nổ”, tác giả Elizabeth Becker gọi du lịch là một
ngành công nghiệp toàn cầu tàn bạo, một con dao hai lưỡi, hứa hẹn thu nhập và
việc làm cho bên chủ nhà, và các trải nghiệm để đời cho bên khách, nhưng cùng
lúc cũng có sức tàn phá khủng khiếp với môi trường, văn hoá và cộng đồng.
Số phận của các
địa điểm du lịch tầm cỡ khác của Việt Nam cũng tương tự như Sapa. Ở vịnh Hạ
Long, mỗi ngày 20.000 du khách được đưa đến và chuyển đi như gà con trên băng
chuyền, sau khi trực tiếp xả thẳng phế thải của mình xuống dưới biển.
Ở Phú Quốc, mùi
nắng gió, mùi nước mắm, các đồn điền tiêu, những làng chài, tâm hồn và cá tính
của hòn đảo, đang biến mất dần. Thay vào đó là chi chít hàng quán, biển hiệu
rối rắm, như một thị trấn vô hồn bất kỳ nào khác.
Người ta xẻ
rừng quốc gia để đặt vào đó các lâu đài nhái kiểu cổ tích châu Âu chóp nhọn loè
loẹt xanh đỏ, những cây thông và bãi cỏ ôn đới lạ lẫm với khí hậu địa phương,
biến một thiên đường nhiệt đới tự nhiên thành một “thiên đường" bê tông
nhân tạo.
Du lịch đại trà
là một hiện tượng toàn cầu, nhưng nó gây ra tác hại nhiều nhất ở các nước đang
phát triển, vì sức chống cự của những nước này, cả từ nguồn lực tài chính lẫn
trình độ quản lý yếu kém hơn. Ở Angkor Wat, gần đây các ngôi đền bắt đầu bị lún
vì mực nước ngầm hạ thấp do mức tiêu thụ nước của các khách sạn liên tục tăng
lên.
Ám ảnh nhất với
tôi là Vang Viêng ở Bắc Lào. Nằm bên bờ sông Nam Song, được vây xung quanh bởi
các dãy núi đá vôi trùng điệp, cái làng nhỏ duyên dáng và xinh xắn này bỗng
nhiên trở thành nơi các thanh niên phương Tây tập kết để ăn chơi như không có
ngày mai. Họ tụ tập ở các bar trải dài 4 km dọc bờ sông, ăn pizza trộn với cần
sa, nốc whisky đựng trong các bát ô tô nhựa, nhảy nhót trong tiếng nhạc rầm
rầm, rồi nằm trong xăm ô tô lao mình xuống nước xoáy để tiêu khiển. Sau mấy
chục ca tử vong chỉ trong vòng một năm, chính phủ Lào phải ra tay dừng cuộc vui
lại.
Mức sống chung
cao lên, các đường bay giá rẻ ra đời, càng tạo điều kiện cho du lịch đại trà
phát triển. Thậm chí, người ta bắt đầu dùng tới thuật ngữ “du lịch siêu đại
trà" (mega-mass tourism) để mô tả hiện tượng này.
Đầu thế kỷ 21,
Giáo hoàng John Paul II phê phán du lịch đại trà là một hình thức bóc lột mới,
nó “biến văn hoá, các nghi lễ tôn giáo, và các lễ hội dân tộc thành những sản
phẩm tiêu dùng” khi khách du lịch tìm tới những cái mới lạ một cách hời hợt và
không muốn tiếp xúc thực sự với văn hoá bản địa.
Thật vậy, trong
trường hợp Sapa, điều quan trọng nhất với các du khách là câu hỏi ăn lẩu cá hồi
ở đâu và mua rượu táo mèo chỗ nào. Không ít người lên đây vì bạn rủ đi để “có
người uống cùng cho khỏi buồn.” Văn hoá, thể hiện qua đám người dân tộc ăn mặc
sặc sỡ và những cái ruộng bậc thang, sẽ chỉ là cái phông cho các bức selfie.
Chả ai bỏ công
ra tìm hiểu về lịch sử, tín ngưỡng, xung đột xã hội, hoàn cảnh kinh tế của
người dân ở đây. Có lẽ yếu tố “văn hoá" duy nhất mà khách quan tâm là cái
chợ tình như là cái gì man di đáng yêu của “bọn nó”, nhưng đằng nào nó cũng
biến mất từ nhiều năm nay rồi - cũng vì du lịch.
Đấy là chưa nói
tới chuyện sắp tới sẽ có nhiều hội thảo, tập huấn, tổng kết, liên hoan v.v…
được tổ chức ở Sapa, ngạch này gọi là du lịch - công việc (business tourism).
Loại du khách này thường không đi cùng gia đình, nên chắc lúc đó sẽ mọc lên
nhiều tiệm massage và karaoke thư giãn với các cô gái miền Tây Nam Bộ đổ về
cạnh tranh với con gái địa phương.
Chầu rìa trên quê hương?
Nhìn những gì
người ta đang tiếp tục làm với Sapa mà thấy đau lòng. Các khách sạn khổng lồ
tám, chín tầng vẫn đang xẻ núi mọc lên, nhiều khi chỉ cách cái bên cạnh một con
phố nhỏ, xe không quay được đầu.
Đảo qua một
vòng trên báo chí, cũng thấy nhắc tới các “thách thức" du lịch ở Sapa,
nhưng hoá ra đó chỉ là các vấn đề “cháy” phòng và khan hiếm chỗ đỗ xe. Chính
quyền địa phương cam kết sẽ ưu tiên giải quyết để “Sapa ngày một vui hơn.”
Cáp treo có
công suất 2000 người một giờ, nghĩa là khi đi vào hoạt động sẽ cho phép mười
mấy nghìn người lên đỉnh núi mỗi ngày, quanh năm, ngày nào cũng như ngày nào,
thay vì con số hiện nay chỉ là mấy chục người một ngày leo đường bộ, và chỉ
trong 6 tháng mùa khô.
Còn những người
dân tộc, những người thực ra là chủ từ bao đời của vùng núi này, họ được gì từ
tất cả những cái này? Hiện nay, mỗi du khách tới Sapa sau khi bỏ ra 1 triệu
đồng cho việc đi lại, khách sạn, ăn uống - tất cả chảy vào túi người Kinh, kể
cả tiền cho một chai nước trắng - thì mới bỏ ra 10 nghìn mua mấy cái đồ thổ cẩm
của người dân tộc. Thậm chí nhiều hướng dẫn viên du lịch còn dẫn khách tới các cửa
hàng bán thổ cẩm nhập từ Trung Quốc vì họ được hoa hồng từ đây.
Và như vậy,
những người Hmong, người Dao, người Tày, người Giáy, sẽ chủ yếu là đứng chầu
rìa ở ngay trên quê hương họ. Sắp tới, cáp treo sẽ làm hàng trăm người đang
khuân vác phục vụ khách leo núi mất việc. Họ sẽ ra nhập đám vợ con họ đang lang
thang hàng ngày ở thị trấn.
Họ sẽ không để
cho du khách yên, sẽ táo tợn, sẽ đeo bám quấy rầy cho tới khi khách mua hàng
mới thôi, sẽ hét “no money, no photo.”
Buổi trưa, khi
các đoàn khách bận rộn với món lợn mán nướng bên trong các quán ăn, họ sẽ ngồi
trên bậc thềm bên ngoài, ngước nhìn lên để thấy ngọn “Hủa Xi Pan" của
mình, một biểu tượng của thiên nhiên hùng vĩ, nóc nhà chung của họ từ hàng trăm
năm nay, bỗng nhiên trở thành một điểm hành hương Phật giáo mới để cho những
người ở đâu tới khấn lậy và nhét tiền vào tay tượng, xa lạ và thô bạo với không
gian văn hoá của họ.
Có thể dừng lại
cỗ máy khổng lồ mang tên “phát triển" này được không? Tôi không chắc. Bởi
nó đang được đốt bởi lòng tham. Các doanh nghiệp thì say lợi nhuận. Chính quyền
thì say tăng trưởng GDP.
Các du khách
thì tham các trải nghiệm mì ăn liền, được tưởng thưởng mà không phải lao động.
Họ muốn “chỉ cần 15 phút để lên nóc nhà Đông Dương”, chụp selfie giữa rừng già
mà vẫn đi guốc cao gót được, nhẹ nhàng như vào Paris Deli.
Nhưng cũng như
với mọi thứ khác trên đời, sự tham lam sẽ phá huỷ hết. Lòng tham sẽ biến con
ngỗng vàng mang tên du lịch thành một con quái vật. Các nhà chuyên môn đã nói
nhiều về cú nổ bong bóng của các điểm đến sau thời kỳ tăng trưởng nóng vô độ.
Với cách làm du
lịch hiện nay, sẽ tới lúc Sapa giống muôn vàn những chỗ khác: vô bản sắc, ô
hợp, nhân tạo và rẻ tiền. Rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn, một sự thảm hại cho
cả người ở đó lẫn người tới thăm.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả từ Hà Nội.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment